Trong 15 năm qua, từ 2006 đến 2020, Ủy ban Bảo vệ Môi trường lưu vực sông Cầu và 6 tỉnh nằm trong lưu vực đã ra hàng trăm văn bản, nghị quyết, quyết định, kế hoạch chỉ đạo, xây dựng cơ chế chính sách BVMT; triển khai nhiều việc, nhiều giải pháp cấp bách, nhằm hạn chế tối đa sự ô nhiễm nước mặt, xử lý ô nghiễm rác thải, nước thải toàn bộ lưu vực sông Cầu. Dù vậy, ô nhiễm vẫn hiện hữu, người dân ven lưu vực sông này vẫn canh cánh nỗi lo…
Ô nhiễm nguồn nước vẫn đáng lo ngại
Lưu vực sông Cầu có diện tích khoảng 6.030 km², với chiều dài khoảng 290 km. Dòng chính sông Cầu chảy qua Chợ Đồn, Chợ Mới, Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh và đổ vào sông Thái Bình tại Phả Lại thuộc tỉnh Hải Dương. Địa hình thấp dần từ đầu nguồn và chia ra làm 3 vùng: thượng lưu, trung lưu và hạ lưu. Lưu vực sông Cầu gồm các nhánh sông chính: Chu, Nghinh Tường, Đu, Công, Cà Lồ, Ngũ Huyện Khê.
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, lưu vực sông Cầu hiện có trên 4.000 nguồn thải. Trong đó, 3.555 nguồn thải là cơ sở sản xuất, kinh doanh; 144 nguồn thải các khu, cụm công nghiệp; 238 bệnh viện và 140 làng nghề. Nước thải từ sản xuất, kinh doanh chiếm 68,9% toàn vùng; nước thải làng nghề khoảng 24,2%, nước thải khu, cụm công nghiệp chiếm 6,2%… Số lượng nguồn thải lớn nhất tập trung trên địa bàn các tỉnh Thái Nguyên có 1.095 nguồn thải, Bắc Ninh 938 nguồn, Bắc Giang 799 nguồn. Nhiều năm trước đây, nước thải từ các nguồn thải cả khu vực hầu hết chưa được xử lý trước khi xả vào lưu vực. Đặc biệt là nước thải từ sản xuất nông nghiệp, làng nghề và nước thải sinh hoạt. Đây là những tác nhân chính gây suy giảm chất lượng môi trường nước mặt trên lưu vực sông Cầu.
Kết quả quan trắc 5 đợt năm 2020 trên Lưu vực sông Cầu cho thấy chất lượng nước có sự phân hóa mạnh giữa các phụ lưu và các đoạn sông. Điểm quan trắc nước có chất lượng tốt tập trung trên đoạn sông Cầu, sông Công. Các điểm quan trắc chất lượng nước sông ở mức xấu, mức ô nhiễm phân bố tập trung trên sông Ngũ Huyện Khê, suối Loàng, xuối Cam Giá (TP Thái Nguyên). Sông Ngũ Huyện Khê có chất lượng nước kém nhất. Không có điểm quan trắc nào có chất lượng nước tốt. 46% các điểm quan trắc có lượng nước trung bình. 27% các điểm có chất lượng nước xấu; 27% các điểm có chất lượng ô nhiễm nặng.
Trong số thông số quan trắc, phân tích của 5 đợt năm 2020, các thông số vượt ngưỡng QCVN 08-MT:2015/BTNMT loại A2 tập trung các thông số nhóm hữu cơ, nhóm hợp chất chứa ni tơ, tổng chất rắn lơ lửng và sắt. Trong đó thông số có tỷ lện ô nhiễm cao nhất là N-NO2 (chiếm 65%), tiếp đến là thông số N-NH4 (43%), thông số BOD5 (25%), thấp nhất là thông số Fe (4%).
Cá chết hàng loạt do ô nhiễm nguồn nước Lưu vực sông Cầu. Ảnh: TTXVN
Các vấn đề môi trường bức xúc tại các địa phương thật đáng lo ngại. Ở các tỉnh trong lưu vực nước thải sinh hoạt chưa được xử lý đều thải ra sông; chất thải khu vực nông thôn đặc biệt chất thải của gia súc, gia cầm không được thu gom xử lý; rác thải sinh hoạt chưa được xử lý, hầu hết chủ yếu là chôn lấp, gây ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước ngầm; tình trạng đổ trộm rác thải công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang chưa được xử lý. Từ 2016 đến 2020, có 26 lần sông Ngũ Huyện Khê xả nước thải đen từ, hôi thối cá chết hàng loạt.
Chất lượng nguồn nước trên sông Thái Bình những năm gần đây bị suy giảm nghiêm trọng, cá lồng nuôi chậm lớn. Hàng trăm hộ nuôi cá lồng bè giờ không dám nuôi con cá lăng, bởi nó nhậy cảm với nước ô nhiễm chúng lớn rất chậm, mắt lồi ra, thân trầy xước không thể bán ở chợ. Cá Diêu Hồng cũng chậm lớn và chết tới trên 40% số cá trong suốt kỳ sinh trưởng. Cá trắm cỏ thường bị chết vào mùa nước kiệt. Thi thoảng có đợt nước màu xanh, nhất là khoảng tháng tư dương lịch, người nuôi cá lồng lo sốt vó vì có dùng bơm phun xả vào lồng, cá vẫn thiếu ô xi và chết nhiều.
Người nuôi cá giờ đây phải bơm sục cho cá đủ ôxy để thở.
Nỗ lực giảm thiểu ô nhiễm
Quyết liệt trong xử lý nhằm giảm thiểu ô nhiễm lưu vực sông Cầu, Chính phủ đã xây dựng cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường Lưu vực sông Cầu. Ở cấp Trung ương, trong các năm 2007-2020, một số luật quan trọng liên quan đến công tác bảo vệ môi trường được Quốc Hội ban hành như Luật Đa dạng sinh học, Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ môi trường; nghị quyết về Khai thác khoáng sản với Bảo vệ môi trường (BVMT); Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3-6-2013 Hội nghị Trung ương 7, khoá XI về Chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường… cùng hàng chục nghị quyết, nghị định, chỉ thị, quyết định của Chính phủ về việc khắc phục ô nhiễm môi trường; về thoát nước và xử lý nước thải các khu công nghiệp, khu đô thị, khu dân cư nông thôn tập trung; quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT …
Đến hết năm 2020, nước thải từ các khu công nghiệp, khu chế xuất công nghệ cao của các tỉnh Hải Dương, Bắc Kạn và Bắc Giang đạt 100% có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Ở lĩnh vực này tỉnh Bắc Ninh đạt 90%, Vĩnh Phúc đạt 87,5%, Thái Nguyên đạt 75%. Tuy nhiên, nước thải từ khu đô thị, khu tập trung đông dân cư, nước thải từ cụm công nghiệp, làng nghề có hệ thống xử lý nước thải tập trung còn ít, 90% lượng nước thải xả trực tiếp ra sông.
UBND cấp tỉnh tiếp tục đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án, nhiệm vụ BVMT lưu vực sông đã được phê duyệt; tăng cường công tác quản lý BVMT trên địa bàn, kiểm soát chặt chẽ tất cả các nguồn xả thải vào lưu vực sông, không để phát sinh các điểm nóng về ô nhiễm môi trường lưu vực sông thuộc địa bàn quản lý; tập trung xây dựng các dự án xây dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung để thu gom, xử lý triệt để nước thải sinh hoạt từ khu dân cư và nước thải phát sinh từ làng nghề, cụm công nghiệp; phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ TN&MT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, xác định các dự án xử lý nước thải sinh hoạt đô thị, khu dân cư tập trung ưu tiên để kêu gọi, thu hút đầu tư; tổ chức xây dựng và phê duyệt kế hoạch quản lý chất lượng nước sông nội tỉnh để thực hiện theo quy định của Luật BVMT 2020.
Tăng cường năng lực quản lý nhà nước về BVMT LVS từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt là năng lực quan trắc môi trường, kiểm soát ô nhiễm, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về BVMT nhằm theo dõi và phát hiện kịp thời những khu vực ô nhiễm, nguyên nhân và giải pháp khắc phục. Chủ động, tích cực giải quyết các vấn đề môi trường liên ngành, liên tỉnh, đặc biệt là chương trình phối hợp nhằm kiểm soát ô nhiễm nước sông liên tỉnh vào mùa khô; các hoạt động gây ô nhiễm tại các điểm có nguy cơ ô nhiễm cao như khu vực nuôi trồng thủy sản, khu tiếp nhận nhiều nguồn thải, bến cảng, bến thủy nội địa trên sông… Tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý LVS theo hướng tổng hợp, thống nhất, đảm bảo quản lý có tính chất liên vùng, liên ngành.
Nguồn: Bộ tài nguyên và môi trường, monre.gov.vn